Thiết kế và chế tạo SMS Kaiser Wilhelm II

Kaiser Wilhelm II, Hoàng đế của Đế quốc Đức, tin rằng đất nước cần có một lực lượng hải quân mạnh mẽ để bành trướng ảnh hưởng ra bên ngoài lục địa Châu Âu. Vì vậy, ông khởi phát một chương trình xây dựng lực lượng hải quân vào cuối những năm 1880, và những chiếc thiết giáp hạm đầu tiên được chế tạo chính là bốn chiếc thuộc lớp Brandenburg. Chúng được tiếp nối bởi năm chiếc lớp Kaiser Friedrich III.[2]

Các con tàu có chiều dài chung 125,3 m (411 ft), mạn thuyền rộng 20,4 m (67 ft), và độ sâu của mớn nước là 7,89 m (25,9 ft) ở phía trước và 8,25 m (27,1 ft) ở phía sau. Chúng được vận hành bởi ba động cơ hơi nước ba buồng bành trướng đặt dọc dẫn động ba trục chân vịt; hơi nước được cung cấp bởi bốn nồi hơi Marine và tám nồi hơi hình trụ dọc. Hệ thống động lực của Kaiser Wilhelm II sản sinh công suất 13.000 mã lực chỉ (9.700 kW), cho phép đạt đến tốc độ tối đa 17,5 hải lý trên giờ (32,4 km/h).[3]

Dàn vũ khí của Kaiser Wilhelm II bao gồm bốn khẩu 24 xentimét (9,4 in) SK/L 40[Ghi chú 2] trên hai tháp pháo nòng đôi, một phía trước và một phía sau cấu trúc thượng tầng trung tâm.[4] Dàn pháo hạng hai gồm mười tám khẩu hải pháo 15 cm (5,9 in) SK L/40 và mười hai khẩu pháo 8,8 cm (3,5 in) SK L/30 bắn nhanh. Ngoài ra nó còn được trang bị sáu ống phóng ngư lôi 45 cm (17,7 in) đặt trên các bệ xoay bên trên mực nước.[3]

Kaiser Wilhelm II được đặt lườn tại xưởng tàu Kaiserliche Werft (Xưởng tàu Đế chế) ở Wilhelmshaven vào năm 1896 dưới số hiệu chế tạo 24. Nó được đặt hàng dưới cái tên trong hợp đồng Ersatz Friedrich der Grosse[Ghi chú 3] nhằm thay thế cho chiếc tàu frigate bọc thép cũ Friedrich der Grosse.[3] Kaiser Wilhelm II được hạ thủy vào ngày 14 tháng 9 năm 1897; tên của được đặt theo đương kim Hoàng đế Đức, và nó được đưa ra hoạt động vào ngày 13 tháng 2 năm 1900.[5]